- Bộ Màu của nắng: kinh dịch
- Trộm nghĩ: bậc Thánh Nhân thực hành chính sự, tất phải tìm đầu mối ở Trời. Bởi lẽ, Trời là nơi mà Lý sinh ra. Bậc Thánh Nhân phải thể hiện cái đương nhiên của Thiên Lý… mà ban bố rộng rãi sự liên hệ thần diệu ấy. Mọi việc dựng xây sắp xếp đều có thứ tự, khiến cho muôn vật sum sẽ, thảy đều thỏa đáng. Mọi việc không thể theo ý riêng suy đoán mà làm. Hiển hiện nơi xã tắc, hiển hiện nơi miếu tổ, hiển hiện nơi cúng thờ, hiển hiện khắp núi sông, ấy là Lý, cái lẽ đương nhiên của Thiên Lý. Noi theo cái Lý ấy mà làm, khắp nơi tràn lòng nhân nghĩa, dựng xây chế độ, thảy đều thấy ở nền chính sự chuộng điều lễ, không gì không theo gốc lớn duy trì khuôn phép. Trời thể hiện lẽ Thiên Lý qua kinh điển, thể hiện trật tự qua lễ nghĩa, thể hiện mệnh trời qua đạo đức, kẻ có tội thì Trời mới trừng phạt, đó đều là do cái gốc vốn ở Thiên Lý mà có, dựa vào Thiên Lý mà làm, gắng dựng điển chương, lễ nghĩa, coi trọng phẩm phục, dùng luật pháp. Xét mọi nền chính sự làm cho dân được yên vui thì không nền chính sự nào không áp dụng điều trọng yếu của sự khuyến khích và trừng phạt. Tham khảo những điều ghi chép trong các sách kinh điển thì cái mà Thánh Nhân dùng để mở mang, tác thành muôn vật chỉ dựa vào Thiên Lý mà làm. Để đề phòng mọi biến cố cuộc đời, duy trì đạo lý của lòng người, tóm lại đều ở cái Thiên Lý ấy.
- Kinh dịch là sách mênh mông.thâu tóm mọi sự. Nội dung của sách vô cùng rộng lớn không có việc gì không có. Ứng dụng của sách hết sức thần diệu không vật gì không bàn. Áp dụng nó thì thuận được cái lẽ âm dương của sự sống, trọn được cái tình với muôn vật trong thiên hạ, mà làm rõ được đường lối mở mang tác thành muốn vật. Ôi! Muốn việc há không có căn cứ mà làm? Ví dụ Thánh Nhân áp dụng lý luận của Kinh Dịch mà tìm ra phương sách như: hình tượng của quẻ Súc như gió bay giữa trời, thể hiện nó bằng lời văn tốt đẹp, sẽ có tác dụng kinh luan rộng lớn; Tượng của quẻ Tỷ như nước xuôi theo mặt đất, thể hiện bằng tình thân mà dựng nước, để biểu thị cái đạo thương yêu của quẻ Tỷ; Bốn mùa thay đổi, đó là cái lý đương nhiên của quẻ Cách. Vậy nên làm ra lịch mà phân rõ tháng năm, đó chính là dùng cái nghĩa đổi thay trong trời đất của quẻ Cách; Hứng khởi mà thành âm thanh, cái lý của quê Dự là như vậy. Vậy nên soạn ra âm nhạc để nêu cao đạo đức, đó chính là làm hòa hợp vui vầy của quẻ Dự. Quẻ Tụy có nghĩa là quần tụ, quần tụ thì tất xảy tranh giành. Vậy nên trừ bỏ việc binh đao để phòng ngừa việc không hòa thuận. Quẻ Phong có cái Lý của sự sáng suốt. Sáng suốt thì có thể quyết đoán. Thế cho nên phải cẩn thận việc hình ngục để làm rõ sự ngay gian. Quẻ Phong (gió) xếp trên quẻ Địa (đất) hợp thành quẻ Quán, cái Lý của sự giáo hóa ẩn chứa ở đây. Ứng dụng cái Lý ấy mà đi tìm hiểu bốn phương, xây dựng nền giáo dục để làm tốt đẹp phong tục của nhân dân. Quẻ Thiên (trời) xếp trên quẻ Lỗi” (sấm) thì thành quẻ Vô Vọng, cái Lý của sự sinh sôi ẩn chứa bên trong. Ứng dụng cái Lý ấy mà tùy thời dưỡng dục muốn vật để hợp với đạo trời. Phàm những điều như trên đều là khuôn phép lớn để cai trị thiên hạ. Không có điều gì không có cái hình tượng ấy, cái Lý ấy rồi sau mới có việc ấy. Xét từ cái nhỏ nhất mà nói thì ngay trong chốn sa mạc hoang vu mọi hiện tượng cũng vẫn phong phú đầy đủ. Xét từ cái rõ ràng nhất thì ngay trong khi vô tình ứng xử cũng thể không có cái Lý ẩn chứa bên trong. Trong lời tựa của Kinh Dịch, Trình Tử nói: “Cái Thể và cái Dụng) là cùng một nguồn gốc, cái rõ ràng và cái tinh vi không có sự phân cách. Qua những điều trên thực tế đã thấy rõ.
- Kinh Thư xuất phát từ sông Lạc, ấy là vị trí, thời điểm tự nhiên của trời đất. Hình vẽ hiện lên trên lưng rùa, cái Lý cao nhất của thiên hạ ở đó.
- Bạc Thánh Nhân theo đó mà định ra khuôn phép, thuật thành hai thiên Hồng Phạm, Cửu Trù”, vạch rõ luân thường tốt đẹp, để làm khuôn phép cho muôn đời. Nay cứ theo số pháp mà tìm, số 1, số 2, số 3, số 4, là ứng vào vị trí của các quẻ Khảm, Khôn, Chấn, Tốn, thuộc các hành số sinh Thủy, Hỏa, Mộc, Kim. Số 5, số 6, SỐ 7, số 8 ứng vào các quẻ Càn, Đài, Cấn, Ly, thuộc các hành số thành Thủy, Hòa, Mộc, Kim. Từ đó mà sắp xếp làm ba đức lớn, khảo xét điều còn nghi ngờ, mong tìm ra phúc lành cao nhất. Đó chính là lấy sự viên thành của số. Thổ ứng với số 5 mà đứng ở giữa. Dựa theo đó mà lập ngôi Hoàng Trù ở vào số 5. Vị số đã rõ ràng, ngôi lớn rạng ngời có thể thấy. Ôi! Chỉ có ngôi Hoàng Trù đứng đầu năm trù mới lập nên được Thể, theo trời mà trị muôn dân, dựa vào bốn trù sau mà đạt được cái Dụng. Như vậy nghĩa là người phải theo trời, cái đạo của người và trời không gì không hoàn hảo. Như vậy gồm được cả Thể và Dụng mà hoàn thiện thì duy nhất chỉ có năm trù là có được. Vì sao vậy? Ngôi Hoàng Đế dựng lên khuôn phép, ngôi ở giữa mà nắm giữ tám trù, lập nên chuẩn mực ngay tháng rộng lớn. Dùng Lý để tu dưỡng bản thân nên trời, người hòa hợp cùng thuận theo; dùng Lý để cai trị người khác nên khí âm dương trong trời đất được ổn định. Theo chín trù cấu người hiện tài giúp đỡ nên lập nên công tích cực cao. Năm trù có thể làm được điều đó. Việc tham dự cùng trời mà giáo hóa, dưỡng dục muốn vật đều quy cả về ngôi Hoàng đế là vì vậy.
- Kinh thi có 300 thiên, bậc tiên vương lấy đó mà giáo hóa thiên hạ. Xem thể phú trong Kinh Thi mà biết rõ lòng người tà hay chính, thế thì người làm ra Kinh Thi đã có nền chính sự coi trọng việc khuyến khích và trừng phạt. Xem những điều trình bày trong Kinh Thi để xét một nền chính sự được hay mất, thì thấy ở các nước chư hầu nền chính sự cũng có lúc hay, lúc dờ. Nay khảo sát những điều trình bày trong toàn bộ Kinh Thi, thì thấy ở thời tiết rõ ràng được trình bày trong các thiên Hàm Phong. Thất Nguyệt. Việc bắt cá trong thiên Hạn Lộc, trồng cỏ lại trên đài là nói về cây cỏ, muông trùng nhỏ bé. Nhân luận, cương thường rõ ràng thấy trong lời ngâm vịnh của các thiên Lan Chỉ, Quan Thư. Mà trống chuông trong thiên Linh Đài, đao búa trong thiên Đông Sơn, thì cũng giống như việc thi hành lễ, nhạc, hình, chính các đời. Đạo trời tinh vi, lòng người cong thẳng, phàm các Lý giao tiếp giữa trời và người, không cái gì không có đầy đủ trong Kinh Thi. Muốn gây dựng qua Kinh Thi thì tất phải xét cái tinh vi trong tính tình con người, cái ẩn giấu trong lòng người. Gốc của thơ Thị Nam là làm ngay thẳng từ đầu mối: Xét phần Nhã Tụng là để thấy cái trọng yếu của sự quy tụ lòng người, mở rộng ra mà bổ sung thêm, thì thân sẽ được tu mà gia sẽ được tề, ổn định trong thiên hạ. Nếu làm được như thế thì cái đạo của Kinh Thi không còn gì là bí ẩn nữa.
- Thần từng khảo cứu các bậc vương giả thi hành chính sự thì thấy; các bậc ấy lấy nhân làm gốc, lấy điều nghĩa để noi theo, luôn tuân theo cái tự nhiên của Thiên Lý, thì đức trời luôn rạng rỡ, nền giáo hóa luôn được ban khắp, không chỉ kỷ cương con người được tu rèn mà còn thi hành ra muôn vật. Mở mang trường học, xây dựng quân đội, trong đạo làm vua đều có đủ; dùng phép tỉnh điển, phân phong chư hầu, đạo của trời thực công bằng. Lấy lòng nhân để dưỡng dục muôn dân, lấy điều nghĩa để làm ngay thẳng muốn dẫn, cả hai điều nhân, nghĩa phải cùng thi hành, tránh cái tệ thiên về một phía. Bởi vậy, trải lâu dài hơn nghìn năm mà đời các bậc đế vương xưa, cơ nghiệp thật vòi vọi lớn lao, nền chính trị cực kỳ thịnh trị
- tựa như một ngày. Thơ văn ghi chép rõ ràng, khiến người trông vào đều thấy việc cai trị không ngoài theo Lý. Các đời sau có làm được thể không?
- Theo ý riêng mà hành động mù quáng, nhà Hán chuyên dùng xảo trá để giữ cơ đồ. Một quy mô gây dựng lên, nhưng chỉ gặp thời thì thịnh trị, còn từ gốc nhiều điều trái với thiên lý. Chỉ làm theo nguyên tắc của kẻ trên lưng ngựa còn chuyện xưa đời Tam đại không giảng rõ, nhà Hán chỉ còn là một triều đại xấu xa hủ bại. Ham chuộng thành công, chạy theo việc gấp gáp, nhà Đường chuyên dùng pháp luật để giữ cơ đồ. Một nền pháp luật hoàn chỉnh chỉ có thể nhất thời đất nước tạm yên, nhưng từ gốc đã lu mờ Thiên Lý. Chỉ vội vàng mong cái an ổn trước mắt, mà đạo Thánh Nhân không chịu học theo, nhà Đường rốt cục tàn lụi. Nhà Triệu Tống lúc mới lập nước, chế độ còn sơ sài, cũng thể hiện được sự chính đại công bằng, nhưng cũng chỉ được thịnh trị bình yên, còn mọi chế độ phần nhiều đều theo thời Ngũ Quý. Như thế thì đạo của bậc vương giả không được nêu cao, nên chế độ không đạt được sự thịnh trị của bậc đế vương. Như vậy thấy rằng: từ sau thời Tam đại, nếu như có thời nào lập được công nghiệp thì đó cũng do từ ý nguyện riêng chứ không phải theo đúng Thiên Lý. Thuyết của Chu Tử đã làm sáng tỏ điều này.
- Triều đại ta: các vị vua thần thánh nối nhau đã được hơn 200 năm, ơn đức thấm khắp, đã sâu rộng lại lâu dài. Đức Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ta: trời ban tài lạ, thần giúp đạo màu. Trên thời sợ trời đất xét soi, nên dựng đàn Giao tế thờ long trọng. Kính trời một dạ, dốc một lòng sùng bái Nghiêu Thang. Nối nghiệp tiền nhân, nên kính soạn ra ngọc phả. Giữ khuôn phép tổ tiên, mọi việc vẹn tròn tốt đẹp. Theo lời dạy xưa trong thiên Võ Dật, nên bên phải treo bức địa đồ, bên trái luôn kề sách sử. Ngày đêm ăn cần chính sự một lòng, gian nan soi xét làm chỗ dựa cho muôn dân. Cầu tạnh, cầu mưa, yêu dẫn một lòng đau đầu. Chấn hưng nên văn trẻ nên long trong mở nền khoa cử. Chăm lo việc binh nhung, nên duyệt quân mỗi kỳ thu tới. Mến kẻ sĩ thấy qua việc kỳ thi Đại đình từ vua ra đề văn sách; coi trọng nghề nông thấy qua việc vua tự xuống ruộng cảm cây, hình phạt nhẹ nhàng, đặt ra luật tam hựu, tam tỉnh. Thuế khóa giảm thu, ban sắc chỉ thập thành, ngũ thành”. Chấn hưng giáo hóa thì ban sách Huấn điều bảo hợp, khắp xóm thôn dạy tiếng đàn ca Trọng phong tục nên ban biển Nghĩa hộ nhân môn, kẻ ngang ngược cũng làm điều hòa thuận. Mọi việc thi hành nền chính sự làm cho bốn biển thịnh trị hòa bình đều lấy Thiên Lý làm gốc. Đạo hằng trình bao lâu đã làm nền nền giáo hóa, rạng ngời cùng mặt trời, mặt trăng, không nào không soi rọi. Đạo vua rực rỡ, cùng trời đất thi hành đức sinh thành, cùng tạo hóa làm nên công dưỡng dục. Đạo Trung Dung là vẻ đẹp của bậc Thánh Nhân, vua cũng dốc lòng tu dưỡng.
- Nay kính thấy: Thánh thiên tử thông minh nối trị, đức nghĩa ngày một đổi mới. Kính trong: từ ngày thiên tử tự trông coi nền chính sự tới nay: dạy tiếng thông minh, việc khoa cử luôn ân cần hỏi tới. Rộng đường cho kẻ bầy tôi, gặp người hiền tài lập tức được biểu dương cất nhắc. Vui ngự trên xe ăn đức, uy nghi lẫm liệt trước muôn dân. Lại thẩm xét trình độ các quan, luôn dạy bảo tư cách người đang quyền chức. Như mây che mưa thấm, rộng ban ơn dưỡng dục xuống muôn dân. Giáng chỉ an xá, giảm nhẹ thuế tỏ, lệnh ban khoan dung cho kẻ dưới. Thương binh sĩ nên ra quy định cho thay nhau được nghỉ. Nuôi sức dân thì có chính sách tùy thời phát chẩn. Xa giá đi tuần phương Bắc, luôn luôn quan sát phong tục trong dân. Mùa xuân thiết lập ăn khoa, nên hiền sĩ thảy đều trọng dụng. Pháp lệnh, chế độ rõ ràng, ấy là bởi tất cả đều là từ Thiên Lý mà ban ra. Kỷ cương được xây dựng, ấy là bởi tất cả đều từ Thiên Lý mà thể hiện. Lý và số phù hợp nhau, nền móng cảnh thái bình là ở đó. Nay đang gặp lúc trời ban phúc lành, thể lòng thương xót tới muôn dân, nên mùa màng hàng năm luôn tươi tốt. Lại được nghe bài Thiên Thương đời Chu. Thủy thần linh thiêng, đưa nước xuôi về biển cả, nên muốn sống xuôi hướng thuận dòng, không còn thấy cảnh chín lần lũ lụt thuở vua Nghiêu. Nền giáo hóa trong lành thăm khắp. Khí lạnh lẽo tan đi cây cối đều xuân. Kẻ gian tác dụng thần không còn đất. Dần dần ơn sáu ban khắp, chốn hút heo mặt sống cũng thắm sắc trời. Khắp nơi không còn cảnh tới vụ mùa mà nóng phu không được thu hoạch. Cầu cho mưa thuận gió hòa, bốn phương tươi đẹp, khắp vũ trụ luôn tràn ngập cảnh thái bình. Sự thịnh vượng có thể sánh với đời Đường Ngu, Thành Chu. Quẻ Thái – Kinh Dịch viết: “vun bồi nâng đỡ để giúp muôn dân”. Thiên Thái Thị Kinh Thư viết: “Được lòng Thượng Đế thương xót bốn phương”. Thời nay há cũng không phải như vậy sao? Càng muốn một lòng lấy Lý làm gốc mà cai trị. Mọi việc làm đều biết chỗ dừng, mọi khuôn phép thật là sáng tỏ, chế độ được nối tiếp ngày thêm dài lâu. Lấy Thiên Lý làm gốc nắm quyền ứng biến muôn việc. Luôn thấy thành công mà không mắc sai lầm. Ở ngôi cao làm chuẩn mực cho muôn người, ngày ngày làm khuôn phép dạy bảo những điều tốt đẹp. Vậy nên kẻ học sinh xin kính cẩn trả lời.
- (dịch nghĩa bài Văn ĐÌnh Đối của Nguyễn Quý Tân- Người dịch Nguyễn Hữu Tưởng – Viện Ngiên cứu Hán Nôm)